Lịch sử quá trình du nhập cà phê vào Việt Nam

Lịch sử quá trình du nhập cà phê vào nước ta

Cây cà phê đầu tiên được người Pháp mang đến Việt Nam vào năm 1857. Từ các đồn điền nhất nhì Đông Dương này, cây cà phê đã có những trở mình mạnh mẽ, thoát khỏi các định chế bao cấp, trở thành một trong những cây trồng có giá trị xuất khẩu cao nhất (sau lúa gạo), đưa nước ta lên vị trí thứ 2 của bản đồ cà phê thế giới. Bài viết này sơ lược về quá trình du nhập cây cà phê có mặt tại nước ta đến thời kỳ đổi mới.

“Trong các đồn điền cà phê đầu thế kỷ thứ 20, người ta trồng cả 3 loại cà phê, cà phê Arabica với giống Typica, cà phê Canephora với giống Robusta và cà phê Liberica cùng với giống Excelsa. Năm 1930 ở Việt Nam có 5.900 ha cà phê. Trong đó có 4.700 ha cà phê Arabica, 900 ha cà phê Excelsa và 300 ha cà phê Robusta”.

Qua nhiều năm trồng cà phê, kết quả cho thấy cây cà phê chè (Arabica) không cho kết quả mong muốn vì dễ bị tấn công bởi sâu đục thân (xylotrechus quadripes) và nấm gỉ sắt (Hemileia vastatrix) phá hoại. Cà phê vối (Robusta) thì không phát triển tốt ở miền Bắc do có mùa đông nhiệt độ quá thấp so với yêu cầu sinh thái của cây này. Chỉ có cà phê mít (Excelsa) sinh trưởng khỏe, cho năng suất khá song giá trị thương phẩm lại thấp. Lúc đó có chuyên gia nước ngoài đã khuyến cáo không nên trồng cà phê chè ở Việt Nam, chỉ trồng cà phê vối ở phía Nam và cà phê mít ở phía Bắc (Chatot – cây cà phê ở Đông Dương -1940).

Trong giai đoạn những năm 1960-1970 ở miền Bắc Việt Nam, hàng loạt nông trường quốc doanh được thành lập, trong đó có hàng chục nông trường trồng cà phê và trồng cả 3 loại chè, vối, mít. Tình hình phát triển của cà phê những năm này cũng không mấy khả quan và đến đầu thập niên 70 người ta đã kết luận không trồng được cà phê ở phía Bắc.

Công cuộc cải cách và bước nhảy vọt về sản lượng

Sau khi chiến tranh thúc kết thúc năm 1975, đất nước gần như trên đà lao dốc về mọi mặt kinh tế – chính trị – xã hội. Trong đó các chính sách kinh tế được sao chép từ Liên Xô không còn phù hợp với tình hình nội tại của nước nhà bấy giờ. Điển hình là mô hình nông nghiệp tập thể đã chứng tỏ sự kém hiệu quả. Vì vậy vào năm 1986, Đảng và Nhà Nước đã thực hiện một “cú quay đầu” (công cuộc cải cách) – như một ván cược lớn và cây cà phê đồng thời cũng năm trong số ấy.

“Cho đến năm 1975 cả nước trên hai miền Nam Bắc mới chỉ có khoảng 13.000 hecta với sản lượng khoảng 6.000 tấn. Cũng từ sau 1975 ngành cà phê Việt Nam mới đi vào thời kỳ phát triển mạnh mẽ – Đoàn Triệu Nhạn”.

Năm 1980 một chương trình phát triển cà phê ở Việt Nam do công ty cà phê ca cao thuộc Bộ nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm xây dựng được trình lên Thường trực Hội đồng Bộ trưởng và được cho phép thực hiện. Tiếp đó là một loạt các hiệp định hợp tác sản xuất để đẩy mạnh quá trình du nhập cây cà phê được ký kết giữa chính phủ Việt Nam và Liên Xô (trồng mới 20.000 ha cà phê), CHDC Đức (10.000 ha), Bungary (5.000 ha), Tiệp khắc (5.000 ha) và Ba Lan (5.000 ha) – Theo Đoàn Triệu Nhạn, VICOFA.

Năm 1982 Liên hiệp các xí nghiệp cà phê Việt Nam (LH-XN-CPVN) được thành lập theo Nghị định 174 HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng với sự tham gia của 3 sư đoàn quân đội và một số công ty thuộc Bộ Nông nghiệp và các địa phương Đắk Lắk, Gia Lai – Kon Tum. Chương trình phát triển cà phê được mở rộng trên các tỉnh Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Loại cà phê được chọn để mở rộng diện tích là cà phê Robusta, một giống cà phê ưa điều kiện khí hậu nóng ẩm và nhất là ít bị tác hại của bệnh gỉ sắt.

Bước ngoặt 1986

Năm 1986 LH-XN-CPVN được sự hỗ trợ của các Bộ nộng nghiệp, Kế hoạch, Tài chính, Ngoại thương,… đã tổ chức Hội nghị phát triển cà phê trong các hộ gia đình nông dân ở các tỉnh Tây Nguyên, Duyên Hải Miền Trung và Đông Nam Bộ, gọi là Hội nghị cà phê nhân dân lần thứ nhất. Cùng với chính sách mới và có sự kích thích mạnh mẽ của giá cà phê trên thị trường quốc tế đang lên cao lúc đó, ngành cà phê Việt Nam đã phát triển nhanh mạnh (Xem thêm Cà phê Việt Nam – hành trình ba thập kỷ).

“Từ năm 1986, Chính phủ Việt Nam đã tập trung nguồn lực đầu tư vào lĩnh vực cà phê, nhằm mục đích chuyển đổi cà phê thành một ngành nông nghiệp quan trọng. Ngoài các trang trại nhà nước, Chính phủ cũng khuyến khích các hộ gia đình cá nhân trồng cà phê. Do đó, sản xuất cà phê tại Việt Nam đã bùng nổ về diện tích, sản lượng và giá trị xuất khẩu”.

Cho đến những năm cuối thập niên 80 của thế kỷ 20 ngành cà phê Việt Nam mới đưa giống cà phê Catimor của loài cà phê Arabica vào sản xuất. Từ đó cà phê Arabica bắt đầu được trồng ở Việt Nam với giống chống bệnh gỉ sắt Catimor. Đó cũng là cơ sở để Tổng công ty cà phê Việt Nam xây dựng chương trình phát triển cà phê Arabica ở Việt Nam.

Qúa trình du nhập cà phê vào Việt Nam
Qúa trình du nhập cây cà phê vào Việt Nam

 

Cà phê Việt, sau hơn một thế kỷ

Vào cuối những năm 1990, quá trình du nhập cây cà phê đã giúp Việt Nam trở thành nhà sản xuất cà phê hàng đầu ở Đông Nam Á và sau Brazil, nhà sản xuất và xuất khẩu cà phê xanh thứ hai trên thế giới. Tuy nhiên, sản xuất chủ yếu tập trung vào hạt Robusta. Trong khi Robusta chiếm 92,9% tổng diện tích trồng cà phê, thì các giống Arabica chỉ chịu trách nhiệm cho một vài phần trăm – không quá 5% tổng sản lượng của Việt Nam.

Sản xuất cà phê đều đặn gia tăng 20% ​​- 30% mỗi năm trong những năm 1990, với những vườn cà phê nhỏ được trồng trên nửa triệu mảnh đất (từ hai đến ba mẫu). Điều này đã giúp xoay chuyển mạnh mẽ nền kinh tế. Lấy một số liệu điển hình như vào năm 1994, đất nước có khoảng 60% người sống dưới mức nghèo khổ, hiện tại con số này chưa đến 10%, và chắc một điều rằng, thanh tựu này không thể bỏ qua sự đóng góp mà cây cà phê mang lại.

Trong công cuộc cải cách, ngành cà phê đã được quốc hữu hóa, phát triển mạnh tại các tỉnh Tây Nguyên, doanh nghiệp tư nhân được nhân rộng, dẫn đến một sự phát triển đột biến của ngành công nghiệp chế biến cà phê. Mối liên kết hợp tác giữa người trồng, sản xuất và nhà nước đã đem đến kết quả trong việc xây dựng thương hiệu cà phê thành phẩm và xuất khẩu sản phẩm bán lẻ.

Phần lớn cà phê nước ta thuộc giống Robusta nổi bật với vị đắng gắt.

“Chìa khóa thành công của cà phê Việt Nam là tập trung vào các giống Robusta. Robusta có mức giá thấp hơn so với người anh em của nó – Arabica. Tuy nhiên, Robusta dễ trồng hơn nhiều vì chi phí sản xuất thấp hơn so với Arabica và khả năng kháng nhiều loại sâu bệnh ảnh hưởng đến Arabica. Ngoài ra, phân bón và nước đầu vào có thể thay đổi để ảnh hưởng đến năng suất mà không ảnh hưởng đến sức khỏe của cây, trong khi sức khỏe của cây Arabica có thể bị tổn hại đáng kể do thay đổi mạnh mẽ của đầu vào – theo ICO”.

Tuy vậy, các con số thống kê hàng triệu tấn cà phê xuất khẩu mỗi năm, chưa thể bù lại cho khiếm khuyết về chất lượng khi mà sản xuất được tập trung vào giống Robusta, với tiềm năng chất lượng thua kém Arabica, và chủ yếu nhằm phục vụ xuất khẩu như dưới dạng cà phê nhân thô, chưa qua chế biến.

Cây Cà Phê Việt Nam
Cây Cà Phê Việt Nam

Nguồn: Sưu tầm

Để biết thêm thông tin về TƯ VẤN MỞ QUÁN NHƯỢNG QUYỀN CAFE “Đậm gu, đúng chất, giá mềm, lãi cao”, NHƯỢNG QUYỀN CAFE, TRÀ ,XE ĐẨY, TRÀ, CACAO SẠCH

Để đặt hàng, mua SẢN PHẨM TRÀ, CÀ PHÊ, CACAO NGUYÊN CHẤT, CUNG CẤP SỈ LẺ

Để tham gia thành viên của GIA ĐÌNH CÀ PHÊ, TRÀ SẠCH

Để phản ánh về chất lượng cafe, chất lượng phục vụ toàn hệ thống của NGUYEN CHAT COFFEE & TEA

Xin vui lòng liên hệ

Công ty CÔNG TY CỔ PHẦN CÀ PHÊ NGUYÊN CHẤT TÂY NGUYÊN

Địa chỉ: 115 Đồng Văn Cống, Phường Thạnh Mỹ Lợi, Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh

Email: cskh@caphenguyenchat.vn

Điện thoại: 0944.33.43.43 

Website: www.caphenguyenchat.vn www.cafesach.com.vnwww.capherangxay.vn

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *